Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

Ngày xuân phiếm đàm về câu đối

Tác giả: Nguyễn Xuân Lạc
Từ một môn học trong nhà trường phong kiến theo lối cử tử, câu đối đã trở thành một thể loại văn học cổ là thể câu đối. Câu đối gồm hai vế hoặc hai đoạn đối nhau (đối ý, đối chữ, đối thanh) dùng để thử tài thông minh học giỏi, bày tỏ chí hướng, mừng nhau, phúng điếu nhau hoặc để treo ở đình chùa, miếu mạo. Câu đối phải cô đọng mới hay, câu đối thử tài phải cầu kỳ hiểm hóc khó đối thì mới thú. Các trạng nguyên tân khoa thường phải đối vế đối của vua trên sân rồng trước khi lĩnh áo mũ vua ban, các sứ thần thường phải đối khi qua quan ải và nhất là khi bệ kiến vua nước mình đến, chính là vì vậy.
Câu đối thể hiện tài trí, bản lĩnh của con người. Đó là vốn hiểu biết sâu rộng, sự thông minh nhanh trí, khẩu khí chí hướng của người đối. Về mặt này, chúng ta có quyền tự hào về dân tộc Việt Nam thông minh tài trí, ứng đối mau lẹ để bảo vệ quốc thể của mình qua pho câu đối - đi sứ. Không ai quên được vế đối đanh thép của Giang Văn Minh khi vua nhà Minh thử tài ông bằng một vế câu đối có ý khinh miệt dân ta:
Đồng trụ chí kim đài thượng lục (Cột đồng trụ đến nay rêu đã xanh).
Ông đã dõng dạc đối lại bằng một câu tràn đầy niềm kiêu hãnh về một dân tộc anh hùng:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ).
Còn Mạc Đĩnh Chi vì đối đáp giỏi, tài trí tuyệt vời nên đã được vua Nguyên phong là “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Một lần bị mưa, đến yết kiến vua Nguyên chậm, viên quan coi cửa bắt ông phải đối được mới cho vào. Vế đối như sau:
Quá quan trì, quan quan bế, thỉnh quá khách quá quan (Qua cửa chậm, quan coi cửa đóng cửa, mời khách qua gặp quan coi cửa).
Vế ra có đến 4 chữ “quan” (lại là từ đồng âm) và 3 chữ “quá” thật là hiểm hóc và khó đối. Nhưng Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu đọc luôn:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra vế đối trước thì dễ, nhưng đối lại vế đối đó mới khó, xin nhường tiên sinh đối trước)
Viên quan coi cửa phục tài bèn mở cửa cho ông vào.
Còn có thể dẫn ra nhiều câu đối như vậy trong việc đi sứ cũng như trong sinh hoạt cung đình của các triều đại phong kiến nước ta. Nhưng ở đây chúng tôi muốn nói đến một đặc điểm khá nổi bật, có thể xem như là một xu hướng vận động của câu đối Việt Nam: đó là sự dân gian hóa, sự Việt hóa câu đối, trong đó các yếu tố Hán Việt và thuần Việt xen kẽ nhau, hoặc có trường hợp không còn yếu tố Hán Việt nữa, khiến cho khi đọc lên, câu đối mang sắc thái Việt Nam đậm đà và người ta không còn nghĩ đến nguồn gốc của nó là do Hán học từ Trung Quốc du nhập vào. Không chỉ câu đối của người bình dân được Việt hóa, mà câu đối của các nho sĩ phong kiến, quan lại, cho đến đấng chí tôn cũng như thế. Ông vua hay chữ Lê Thánh Tông trong ngày cuối năm đã ghé thăm và đề tặng bà chủ quán trầu nước đôi câu đối Tết hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ:
Nếp giầu quen thói kình cơi,
          con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát,
          Bắc Nam đâu đấy lại hàng.
Còn câu đối Tết của “bà chúa thơ Nôm” thì dân gian biết bao và tuy còn đôi từ Hán - Việt nhưng ai cũng hiểu được:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn,
          ních chặt lại kẻo ma vương
          bồng quỷ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
          mở toang ra cho thiếu nữ
          rước xuân vào.
Câu đối của Trạng Quỳnh thì vừa tinh nghịch, xấc xược vừa biến báo như thần và đó là những câu đối Việt Nam trăm phần trăm cả về ngôn ngữ, ý tứ và sắc thái:
Trời sinh ông Tú Cát/ Đất nứt
          con bọ hung
Miệng nhà sang có gang có thép/
          Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.
Là cháu chắt của Trạng Quỳnh sau này, Xiển Bột đã không hổ thẹn với tiền nhân. Trong vế đối của Xiển khi còn nhỏ, có cả tiếng chửi quan sướng miệng mà đối vẫn rất chỉnh:
Vế quan ra: Roi thất phân đánh
đít mẹ học trò
Vế Xiển đối: Lọng bát bông
che đầu cha quan lớn!
Nhưng nói đến sự Việt hóa của câu đối, không thể không nói đến cấu trúc tu từ của từ đồng âm khiến cho câu đối đọc lên nghe rất thú vị và dễ nhớ. Có khi là từ đồng âm thuần Việt:
Ruồi đậu mâm xôi đậu/ Kiến bò đĩa thịt bò
Nhưng thường là từ đồng âm với nghĩa Việt và Hán khác nhau:
Ô! Quạ tha gà/ Xà! Rắn bắt ngóe
Da trắng vỗ bì bạch/ Rừng sâu
mưa lâm thâm.
Cũng có khi trong câu đối có cả hai loại từ đồng âm nói trên mà tiêu biểu là vế ra của Đoàn Thị Điểm và vế đối của Trạng Quỳnh:
Cây xương rồng, trồng đất rắn,
          long vẫn hoàn long
(Vế ra có hai từ đồng âm: long: từ Hán nghĩa là rồng, từ thuần việt nghĩa là không chặt; rắn: từ thuần Việt vừa mang nghĩa con rắn, vừa mang nghĩa cứng)
Quả dưa chuột, tuột thẳng gang,
          thử chơi thì thử.
(Vế đối cũng có hai từ đồng âm: thử: từ Hán nghĩa là chuột, từ thuần Việt nghĩa là thử chơi; gang: từ thuần Việt vừa làgang tay, gang tấc, vừa là dưa gang).
Một nét Việt hóa nữa của câu đối là cấu trúc tu từ của từ đồng nghĩa trong câu đối. Có trường hợp là từ đồng nghĩa hoàn toàn - các cặp từ Việt và Hán đồng nghĩa với nhau:
Cha con thầy thuốc về làng,
          quảy một gánh hồi hương phụ tử.
Nhưng nhiều hơn là những từ đồng nghĩa không hoàn toàn, còn gọi là từ gần nghĩa, tức là những từ cùng nằm trong một trường ngữ nghĩa với nhau, tạo ra sự liên tưởng rất thú trong câu đối:
Kiến đậu cành cam, bò quấn quýt
Ngựa về làng bưởi, chạy lanh chanh.

Bà đồ Nứa đi võng tre,
đến khóm trúc thở dài hí hóp
Lên phố Mía, gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo (kéo) lại hỏi thăm đường.

Trời mưa đất thịt trơn như mỡ,
giò (dò) đến hàng nem, chả muốn ăn
Gái tơ chỉ kén ngài quân tử.
Câu đối ta sử dụng tài tình vần lưng là loại vần đặc trưng Việt Nam và sự hòa thanh bằng - trắc nhịp nhàng, đọc lên nghe rất sướng:
Con cóc leo cây vọng cách,
nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Chim công đi qua chùa Kênh,
          chim nghe tiếng cồng,
          chim kềnh cổ lại.
Lại có những câu đối sử dụng cả cấu trúc tu từ của từ đồng âm, từ đồng nghĩa, cả vần lưng và thanh điệu:
Con giai Văn Cốc, lên dốc bắn cò,
          đứng lăm le, cười khanh khách
Cô gái Bát Tràng, bán hàng
          thịt ếch, ngồi chầu chẫu,
          nói ương ương.
Tú Xương có đôi câu đối Tết mà người Việt Nam ta ai cũng nhớ:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh.
Còn cụ Tam nguyên Yên Đổ thì đã từng cho dân làng biết bao câu đối. Có trường hợp không biết câu đối là của người xin chữ hay người cho chữ. Anh người làng nói: “Nay cháu kiếm một cơi giầu đến thưa với Cụ, xin Cụ đôi câu đối để thờ ông cháu”. Cụ Tam nguyên rung đùi đọc luôn:
Kiếm một cơi giầu thưa với Cụ
Xin đôi câu đối để thờ Ông!
Nhưng độc đáo nhất và cũng tài tình nhất là câu đối mà cả hai vế chỉ dùng có hai chữ, khi Nguyễn Khuyến còn là cậu học trò nhỏ. Đây là câu đối “dán chuồng lợn” để trả đũa anh trưởng tràng, vì vậy chỉ gồm hai chữ “trưởng tràng”:
Trưởng trưởng, tràng tràng,
          tràng trưởng trưởng
Tràng tràng, trưởng trưởng,
          trưởng tràng tràng.
(Nghĩa là: Lớn lớn, dài dài, dài lớn lớn
Dài dài, lớn lớn, lớn dài dài)
Câu đối dán chuồng lợn là để cầu cho lợn chóng lớn, thiết tưởng không còn câu nào hay hơn thế nữa, nhưng đã cho anh trưởng tràng một vố thật sâu cay, nhớ đời.
Dí dỏm và thông minh là những câu đối vui - những câu đối cực ngắn chỉ có thể tìm thấy trong văn học dân gian. Ngày xuân, hai ông đồ cùng nhắm rượu, đối văn. Ông đồ thôn Đông gắp một miếng chả nhai tóp tép rồi tung ra một vế đối:
Chả ngon!
Ông đồ thôn Đoài đang bí vì cái từ “chả” hai nghĩa ấy thì may quá từ gầm giường một con cóc nhảy ra, miệng cũng nhai tóp tép. Ông liền đối ngay:
Cóc sướng!
“Cóc” đối lại “chả” thật tuyệt vì nó cũng mang hai nghĩa như vậy. Ông thôn Đông chịu là giỏi, vờ cắn phải lưỡi và kêu lên:
Ái! (vừa là tiếng kêu, lại có nghĩa là yêu).
Tiếng kêu làm ông thôn Đoài giật mình, đánh rơi miếng thịt hoen bẩn chiếc quần sộp. Ông đối lại ngay:
Ố! (vừa có nghĩa là hoen ố, lại có nghĩa là ghét).
Thế là hòa cả làng. Người ra đã hóm, người đối cũng hay. Tài trí dân gian thật tuyệt vời.
Lại có cả vế đối trữ tình mà hàm chứa ý nghĩa sâu xa giữa vị hoàng tử và cô thôn nữ. Khi còn là một chàng trai, một hôm Lê Thánh Tông đi dạo trên bờ một con sông đào ở vùng Thanh Hóa và tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo dưới sông. Mến cảnh, mến người và cảm hứng chợt đến, vị hoàng tử trẻ tuổi liền đọc vế đối:
Gạo trắng, nước trong, mến cảnh
          lại càng thêm mến cả…
Nhưng cô gái vẫn thản nhiên vo gạo cho đến khi xong đâu đấy mới ngoái lại và đọc lên vế đối của mình:
Cát lầm, gió bụi, lo đời đâu đấy
          hãy lo cho…
Lúc bấy giờ đang thời buổi loạn li, lời đối đầy ý nghĩa của cô gái đã nhắc khéo vị hoàng tử hãy lo việc lớn, đem sức trai mà cứu dân giúp nước. Nhưng ba dấu chấm lửng ở cuối vế ra lẫn vế đối lại tạo nên dư vị trữ tình ngọt ngào, gợi nhiều liên tưởng thú vị trong người nghe. Cũng là điều ít thấy trong câu đối xưa nay.
Thời cận đại và hiện đại lại xuất hiện câu đối… toán học chơi chữ Việt - Pháp. Đây là câu đối giữa bố vợ và con rể, đều là người có học, biết chữ Pháp. Ông bố vợ bắt được con ba ba, đem hầm lên để mời con rể, với điều kiện chàng rể phải đối được vế ra của ông:
Hầm ba ba đã chín.
Câu đối quả là hóc búa, vì “ba ba” là con ba ba, nhưng cũng là ba lần ba bằng chín (3x3=9). Chín vừa là tính từ (đã được hầm chín) lại vừa là số từ (9). Phải đối sao cũng có phép tính nhân với tích số mang hai nghĩa như vế ra.
Chàng rể đang bí, bỗng có chiếc xe bò chở cát đi qua. Anh ta mừng quá, vội xin đối:
Chở cát cát đầy xe.
Vế đối cũng rất thông minh và sáng tạo. “Cát cát” là hạt cát, nhưng tiếng Pháp, “cát” (quatre) là số 4, “cát cát” là 4x4=16. Tiếng Pháp, 16 là seize, đọc là xe, nên “xe” ở đây vừa là cái xe bò, vừa là số 16, tích số của phép nhân 4x4. Thật tài tình! Vế ra chơi chữ tiếng Việt, vế đối lại chơi chữ cả Việt - Pháp, và cả hai vế đều đối nhau bằng phép tính nhân rất chỉnh. Chàng rể được bố vợ thưởng cho một bữa nhậu ba ba túy lúy.
Trong nhà trường cũng có nhiều câu đối lí thú, nhiều vế ra hiểm hóc, kiểu như: Cụ giáo làm giáo cụ; Cán bộ đi bộ ra Bộ (“ra bộ” còn có nghĩa là “ra vẻ ta đây”),… Còn nhớ cậu học trò Đinh Thành Chương trường Chu Văn An, Hà Nội, cách đây hơn nửa thế kỷ, đã ra vế đối để thử tài thầy:
Giáo sư Lý dạy Hóa, hóa ra vô lý.
Và thầy Quốc Phong đã ung dung đối lại thật tuyệt vời, đầy hàm ý:
Đệ tử Chương làm văn, văn chẳng
          thành chương.
Nguồn Văn nghệ số 6+7+8/2018

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

NHÓM ĐỘNG TÁC VÀ TƯ THẾ "DĂM PHÚT CHO NHỮNG NGƯỜI YẾU MỆT"


Tiếp tục giới thiệu một số bài tập Yoga từ cuốn sách "Yoga thực hành" của Philip Đơ Meric, dưới đây xin giới thiệu một chương của cuốn sách:

CHƯƠNG XXIII
NHÓM ĐỘNG TÁC VÀ TƯ THẾ
“DĂM PHÚT CHO NHỮNG NGƯỜI YẾU MỆT”

Sau “Chào mặt trời” khá tốt và đối với một số thì có phần hơi khó, chúng tôi giới thiệu một nhóm tư thế nhẹ nhàng hơn có nhiều giá trị mà mới có một số ít người biết.
Tập nhóm tư thế này có tác dụng tu chỉnh cột sống đẩy manh lưu thông máu nói chung, xoa nắn nhẹ nhàng các đốt sống lợi tiêu hóa.
Nó không đòi hỏi một cố gắng nào quá sức cũng như một phẩm chất thể dục nào đặc biệt.
Tên của bài tập rất gần với hình ảnh thực: “những động tác của cá sấu bò trong bùn sau bữa ăn”.
Trong khi tập nên nhắm mắt.
Những động tác đầu tiên làm trong tư thế nằm ngửa.
1.Để bàn chân phải lên cổ chân trái. Hai tay dang ra ngang hai vai, bàn tay úp. Hít vào sâu, giữ hơi (không chặn hơi). Lật háng từ phải qua trái và từ trái qua phải (mỗi  bên hai lần). Hai vai vẫn phải sát đất, đầu thẳng bất động, cằm hơi thụt vào. Thở ra và nằm thư giãn. Thở sâu 2 hoặc 3 lần (hình a và b).

2. Tiếp tục nhưng đổi chân (đặt chân trái lên chân phải).
3. Đặt gót chân phải lên ngón bàn chân trái. Hít vào từ từ, giữ hơi và lật háng sang trái sang phải, mỗi bên 2 lần. Thở ra. Các bàn chân, mỗi lần vặn người, nếu có thể thì cho chạm đất. Khi lật trái thì đầu ngoảnh về phải và ngước lại. Như vậy toàn bộ cột sống sẽ được xoa nắn. Hai tay lúc nào cũng dang ra hai bên (hình c và d).
4. Tiếp tục như trên nhưng không đổi chân.
5. Đặt bàn chân phải sang phía kia đầu gối của chân trái, lòng bàn chân sát đất, mắt cá mặt ngoài chạm vào đầu gối. Hít vào từ từ, giữ hơi và lật háng sang trái. Đầu gối chân phải chạm đất nếu có thể, trong khi đầu ngoảnh sang phải, 2 vai vẫn sát đất. Làm nhiều lần bên này, bên kia (hình e và f).
6. Tiếp tục làm như trên nhưng không đổi chân.
7. Gập hai đầu gối để sát nhau, 2 bàn chân sát đất. Hít vào từ từ, giữ hơi, ngả cả hai đầu gối sang phải rồi sang trái cho chạm đất. Thở ra.
Làm lại 3 hoặc 4 lần (hình g và hình h)

8. Gập hai chân lên ngực, hai tay vòng ôm lấy đầu gối. Nghiêng sang phải, rồi sang trái, dùng khuỷu tay để tự. Rồi đung đưa từ trước ra sau. Cũng giữ hơi khoảng ít giây (hình i)

9. Chân duỗi dài, hai bàn chân sát nhau, lồng ngón tay vào nhau, lòng bàn tay ngửa ra ngoài, tay thẳng.
Hít vào sâu và trong lúc giữ hơi thì hai tay lồng vào nhau đưa một vòng rộng bắt đầu từ bên phải, vòng lên trên sau đầu rồi qua bên trái (thở ra).
Tiếp tục làm như trên nhưng vòng ngược lại. trong khi tập, toàn thân đều vươn duỗi.
10. Tay chắp, ngón tay lồng vào nhau, lòng bàn tay ngửa, đưa hai tay thẳng lên phía sau đầu, hít vào, phồng bụng lên, giữ hơi.
Nhấc 2 bàn tay và 2 bàn chân lên hơi khỏi mặt đất một chút và lật người từ trái sang phải và ngược lại (hình k).
Sau mỗi động tác trên có thể nghỉ một chút và làm động tác “cá quẫy”.
11. Bài tập cuối cùng của nhóm này phải làm ở tư thế ngồi. Ngồi Hoa Sen hoặc xếp bằng hoặc quì…
Đặt bàn tay lên đầu gối, lưng thẳng, hít vào, giữ hơi và lần lượt đưa từng vai lên phía trước rồi kéo về phía sau trong ít giây miễn là không phải cố gắng để giữ hơi.
Thở ra, thở sâu một vài lần rồi lại tiếp tục làm hai vai cùng lúc đưa về trước, đưa về sau.
Có thể nhún vai lần lượt và cùng một lúc.
Bài tập này rất tốt để chữa bệnh liệt khớp.
Toàn bộ các bài thực hành trên được các thầy Yogi coi như để chuẩn bị cho một buổi tập hoàn chỉnh.
Đối với chúng ta, nó là một bài khởi động được chọn lọc trong nhiều bài khác, có giá trị là phù hợp với tất cả mọi người và chỉ đòi hỏi một thời gian tối thiểu.
Bạn có thể tập buổi sáng và buổi tối trước khi ngủ. Nó chuẩn bị rất tốt cho giấc ngủ.


Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018

TƯ THẾ HOA SEN

Tiếp tục giới thiệu về Yoga qua cuốn sách "Yoga thực hành" của Philip Đơ Meric, dưới đây xin giới thiệu với các bạn một bài tập (một asana)

A22- tư thế hoa sen
(padmasana)
Hoa sen là biểu tượng thiêng liêng của Ấn Độ giáo và cổ Hy Lạp, biểu tượng của sự thuần khiết. Tư thế này bắt buộc các khớp cảu chúng ta, nếu không trở lại thủa “ấu thơ” của những năm niên thiếu thì chí ít cũng trở lại sự mềm mại vốn có trong số đông của chúng ta, bị mất từ lâu.
Nó tràn đầy các dực tính vì, theo những sách khái luận về Yoga, nó chữa khỏi tất cả các bệnh và các thứ nhiễm độc. Nó giúp đánh thắng bệnh lười biếng, bệnh ngủ nhiều, những mềm yếu tinh thần, đánh thức dậy năng lượng tiềm ẩn trong chúng ta, dẫn chúng ta tới sự thông hiểu bí mật của vũ trụ…
Đây là một tư thế vào loại khó, phải kiên nhẫn luyện dần.
1.Chuẩn bị
a) Ngồi, chân thẳng, vai xuôi tự nhiên, ngực kéo lên cao. Hai chân duỗi thẳng sát nhau, bàn chân duỗi, dùng tay kéo chân phải, đặt gan bàn chân sát vào đùi trái, gót chân càng gần hội âm càng tốt, đầu gối đặt sát đất. Để yên như thế, một lát thở đều, hai tay đặt lên hai đầu gối (H. A22a)

Thở ra và cúi xuống chân duỗi, cố với tay đến bàn chân. Ngẩng lên đồng thời thở vào. Làm ba lần như thế.
Trở về như lúc đầu, chân ruỗi thẳng sát nhau. Tiếp tục bằng chân kia.
b) Dùng tay gập chân phải lại đặt ra phía ngoài cho bắp chân chân sát đùi, bàn chân sát háng trái, chân kia duỗi thẳng. Giữ yên như thế ít giây rồi cúi xuống trước về phía chân duỗi đồng thời thở ra, tay với đến bàn chân. Trở lại như cũ, hít vào, làm 3 lần (với mỗi chân) (H. A22b)

c) Sau hai tư thế chuẩn trên, dùng tay kéo chân phải gập lại và đặt bàn chân lên đùi trái càng lên cao càng tốt, gót chân sát vào bên gần rốn, gan bàn chân để ngửa. Cúi về trước 3 lần trân mỗi chân (H.A22c)

Ghi chú – Đó là 3 giai đoạn dự bị. Bạn sẽ thấy rất là cần thiết. Bạn chỉ có thể chuyển sang giai đoạn thực hiện chính thức nếu mỗi gia đoạn dự bị trên không còn thấy khó khăn về bên này cũng như về bên kia. Đừng lo ngại nếu thấy bên này cứng hơn bên kia vì bạn không phải là người thuận cả hai tay. Ghi nhận này có giá trị với tất cả các tư thế phải làm cả hai bên.
2.Thực hành
Sau khi 3 tư thế chuẩn bị trên đã thuần thục, bạn đặt bàn chân trái lên đùi phải (dự bị 3). Ngả người một chút ra phía sau để dễ gấp chân phải lại rồi đặt bàn chân phải lên đùi đối diện, gót chân cạnh rốn.
Như vậy hai gót chân sẽ ở hai bên rốn (H.A22d)

3.Giữ yên
Rướn thẳng người từ thắt lưng đến gáy, lưng thật thẳng. Giãn cơ cánh tay, vai. Hai tay đặt trên hai gối. Hai đầu gối phải sát đất để thăng bằng vững.
Khó khăn – Có cần điểm ra không? Bạn đã biết rất rõ. Chỉ còn vấn đề là phải khắc phục dần để có thể đặt được đầu gối  và hai mông sát đất. Nhấn mạnh từ từ, lâu lâu để có thể kéo dài làm mềm dần gân và khớp.
Những bài tập này dù chưa đến chỗ đạt được tư thế cuối cùng cũng có tác dụng rất mỹ mãn.
Đề phòng
Về bản thân tư thế, một khi đạt được, cũng giữ dần dần không nên quá gắng sức.
Có thể có nguy cơ giãn dây chằng đầu gối và trượt xương bánh chè, đó là điều đáng giận. Chú ý tới tất cả cảm giác đau bất thường ở đầu gối và nếu bạnở trong trường hợp này thì hãy ngừng lại và bỏ qua tư thế này một thời gian.
Sau khi đã giữ tư thế này lâu hoặc mau, khi trở lại hoạt động bình thường cũng phải rất từ từ.
Vì sự kéo giãn và vặn các dây chằng đầu gối và mắt cá mà tư thế này gây ra nên mặc dù đã quen và dễ làm, nếu sau khi giữ vài phút, bạn cũng cần đề phòng và nên:
1.Rút bàn chân ra từ từ không nên đững dậy ngay và đột ngột.
2.Không nên đi và chạy mau. Hãy để cho các khớp quen trở lại với hoạt động.
Sự tuần hoàn máu trong các chân đã bị chậm lại hãy để nó có thời gian lưu thông bình thường. Bạn sẽ tránh được cảm giác khó chịu như kiến bò và tránh được kết quả của nó là mắt cá chân và đầu gối bị yếu đi.
Lợi ích
Chúng tôi đã kể những gì mà truyền thống cũ hứa hẹn. Chúng ta khiêm tốn hơn, và khi tư thế đã làm được thành thục, coi như một tư thế giúp chúng ta giãn cơ dễ dàng ở tư thế ngồi không bị sụn xuống. Đó là một trng những asana thông dụng nhất để thực hành thở. Nó có đặc hiệu là tăng lực cho các cơ quan ở bụng bởi sự tuần hoàn máu được khởi động trong các vùng háng, xương chậu, tủy cột sống và chậm lại ở hai chân.
Ý nghĩ dễ tỉnh táo hơn là ở tư thế nằm. Do đó chúng ta có thể rèn luyện thuận lợi hơn về tập trung chú ý về tự tập hợp lại, về bồi bổ năng lượng bằng cách thở hoặc cắm chốt sự chú ý vào điểm xuất phát của hơi thở tức vùng bụng.

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018

CHÀO MẶT TRỜI, một bài tập bổ ích

Xin giới thiệu với các bạn một bài tập rất bổ ích. Bài được trích từ sách "YOGA thực hành" của tác giả Philip Đơ Meric



Chào mặt trời
(Suryanamaskara)
Namaska  theo tiếng Phạn nghĩa là chào, đó là cử chỉ mà có lẽ bạn đã chú ý: hai tay chắp vào nhau chào mừng người đối chuyện và cũng biểu hiện sự hòa hợp của hai yếu tố dương (bàn tay phải) và âm (bàn tay trái) chắp vào nhau.
Còn chữ Surya (mặt trời), bạn dừng vội tưởng đó là một cử chỉ sùng bái mặt trời. Nó chỉ là cái hướng mà bạn ngoảnh mặt vào đó để hưởng thụ cái sức mạnh và ánh sáng của những tia nắng mặt trời, cùng một lúc với sự tập trung tư tưởng vào cái lò ánh sáng rọi chiếu cả thế gian, một hình ảnh gần gũi với Thần Quang (Lumiere Divine) mà mỗi người đều tìm cách tiếp cận với ý thức hoặc không. Những tiếng Chúa Trời, Thánh Thần (dieu, divin) đều từ chữ gốc diva có nghĩa là “ánh sáng”.
Chữ nghĩa xong rồi, chúng ta quay vào bài tập, nó đòi hỏi tối đa sự uấn và kéo cột sống có thể so sánh với con mèo hay con chó của bạn khi chúng vươn duỗi người. Chúng đã không lơ là mà vạn động cột sống của chúng một cách rất tự nhiên để duy trì sức mạnh và sự mềm mại.
Bài tập này gồm 10 giai đoạn nối tiếp nhau, phối hợp trong động tác thở và tư thế.
Nó sẽ được thực hành mặt ngoảnh về phía mặt mọc hoặc lặn. Về định hướng là một yếu tố được ghi nhưng thực ra cũng không có gì đáng kể.
Bài tập có nhiều lợi ích sẽ kể sau nhưng có cái tiện là tập ở đâu cũng được, không gây sự chú ý cho mọi người.
Miêu tả bài tập
Tư thế khởi đầu:  Đứng, thân thẳng chân chụm, bụng thót, hai tay chắp trước ngực, mắt nhìn thẳng, cơ mặt giãn. Thở ra. (a)
1-Đưa hai tay thẳng lên đầu, bàn tay vẫn chắp, đưa càng cao càng tốt. Hít vào (b)

2- Rời hai tay, lòng bàn tay hướng về phía trước, từ từ cúi xuống và thở ra. Đặt bàn tay xuống đất ở hai bên sát hai bàn chân. Đầu chạm vào hai gối (vẫn thẳng). (c)
3- Chống hai tay gấp hai đầu gối lại và đưa chân trái ra sau thật thẳng, đầu ngẩng. Hít vào đồng thời đưa cả hai chân phải dọc theo chân trái, hai bàn chân sát nhau. (d)
4- Không được đổi chỗ chân và tay, chống mạnh hai tay xuống đất để cố đặt hai bàn chân chạm đất. Giữ hơi. (đ)

5-Vẫn không xê dịch chân tay nhào người về phía trước, mặt và ngực chạm sàn, hai tay khuỳnh đầu gối không được chạm sàn (nữ thì được phép). Trọng lượng toàn thân đặt trên hai bàn tay và đầu ngón chân. Thở ra khi bắt đầu nhào. (e)
6-Đưa người lên, tay chống thẳng, hít vào. Cong hẳn người chân thẳng. (g)
7-Đẩy hai tay một lần nữa để đặt hai bàn chân xuống sàn, thân đẩy hẳn về phía sau đầu ở giữa hai cánh tay. Giữ hơi. (h)

8-Co chân trái lại và đặt bàn chân vào giữa hai tay chống. Thở ra. (i)
9-Đưa nốt chân phải về cạnh chân trái. Đứng thẳng hai chân lên, tay vẫn chống sàn, đầu chạm gối. Thở ra sâu. (k)
10- Đứng thẳng người lên tay giơ thẳng như giai đoạn 1. Hít vào, thở ra thật sâu hai ba lần. (l)

Rồi lại làm lại toàn bộ (xem các hình vẽ từ a đến l)
Khó khăn và lợi ích
Khó khăn
Chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết các vấn đề đặt ra cho nhiều người trong chúng ta ở một số giai đoạn.
Bạn hãy đọc kỹ bài hướng dẫn và so sánh với các hình vẽ. Đừng chú ý vội đến thở. Cố gắng dù là còn vụng về, làm các động tác, các giai đoạn và luôn luôn nhớ là không hiếu thắng.
Giai đoạn 1 – Chú ý đứng thật thẳng vút lên như một mũi tên. Vươn người lên cao.
Giai đoạn 2- Nếu không đặt được bàn tay xuống đất thì cố gắng được đến đâu hay đến đó (chạm đầu ngón tay chẳng hạn), gối phải thẳng, đầu cúi, không dùng đà và quá sức, sau đó khuỵu gối để chuyển sang giai đoạn sau.
Giai đoạn 3- Do khuỵu hai đầu gối bạn có thể chống 2 tay xuống sàn. Duỗi chân trái dài ra sau và sau đó duỗi chân phải.
Giai đoạn 4- Có thể bạn không đặt được bàn chân xuống sàn. Cố gắng được đến đâu hay đến đó. Kéo dài bắp chân ra.
Giai đoạn 5- Nhiều bạn nữ, cơ bắp tay không đủkhỏe có thể nhảy qua sang giai đoạn sau.
Giai đoạn 6 - Không có gìkhó.
Giai đoạn 7 - Giống như giai đoạn 4.
Giai đoạn 8 - Đặt chân giữa 2 tay nếu khó thì có thể gập mạnh đầu gối và nâng bớt hai bàn tay lên chỉ để các ngón chạm sàn. Nghiên cứu động tác sao cho giảm khoảng cách giữa bàn chân và bàn tay, nếu không sẽ khó đứng lên.
Giai đoạn 9- Khi 2 chân đã sát cạnh nhau, đừng quên đầu gối phải thật thẳng như giai đoạn 2 trước khi thẳng người lên. Nếu không được thì bỏ chống tay xuống sàn.
Giai đoạn 10- Đó là giai đoạn cuối trước khi tiếp tục. Bạn hãy lấy lại sức, đừng cưỡng lại nếu đã thấm mệt. Chỉ bắt đầu làm lại khi đã hồi sức.
Sau khi đã thạo các động tác, bạn hãy chú ý đến thở ở mỗi giai đoạn theo như chỉ dẫn. Phải trong ít ngày bạn mới có thể thuần thục. Bạn có thể làm mỗi buổi 3 lần, sau một tuần lại tăng lên một lần và tiến tới mỗi buổi làm 5 lần mà không thấy khó khăn gì. Bạn sẽ mất vào khoảng từ 4 đến 5 phút, cứ cho là 5 phút kể cả nghỉ xen kẽ.
Một người còn trrẻ có thể làm được từ 15 đến 25 lần, như thế có thể thay hoàn toàn một buổi tập.
Lợi ích
Với người Ấn Độ “Chào mặt trời” là một trong những bài tập quan trọng vì nó hoàn chỉnh nhất. Nó tác động đến toàn bộ cơ thể, bổ dưỡng cơ bắp vừa làm cho cột sống mềm mại, điều hòa lưu thông máu, làm chủ hơi thở, xoa bóp các cơ quan nội tạng (gan, ruột, túi mật v.v…) trong các giai đoạn 2, 3, 6, 8 và 9. Tập tốt nhất là vào buổi sáng lúc thức dậy. Nó chuẩn bị cho các Asana và thay thế cho một bài tập nếu ta không có thời gian.
Với các nhà thể thao, đó là sự khởi động hoàn hảo, tránh được những co rút cơ bắp đột ngột.
Đối với những người không được khỏe lắm, nó giúp cho khỏe cơ bắp tay và ngực bằng các giai 5, 6, 7. Có thể làm lại 10 lần hoặc hơn nữa tùy bạn. Người ta kể lại rằng một Yogi người Ấn Độ đã tập “Chào mặt trời” 3000 lần liên tục tức là vàokhoảng 48 tiếng đồng hồ không ngủ, không ăn. Bạn đừng tưởng đó là một kỷlục theo nghĩa thể thao mà chỉ là một cuộc hành xác hổ hạnh (mortification) mà người đó tự đặt ra. Nhưng cũng phải nói đó là một siêu lực sĩ.

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

GIỚI THIỆU SÁCH

*/ Sách về phụ nữ thế kỷ 19 của cháu gái vua Minh Mạng (VnEx, 01-3-18)
*/ Những cuốn truyện hay viết về loài chó (VnEx, 16-02-18)
*/. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2017: Tác phẩm lý luận phê bình lên ngôi (SGGP, 5/2/18)
Tập tiểu luận phê bình "Bóng người trong bóng núi" của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thanh Nghị; tập lý luận phê bình "cách tân nghệ thuật văn học phương Tây" của nhà nghiên cứu lý luận phê bình Phùng Văn Tửu.
*/.Ra mắt bộ sách 150 năm Minh Trị Duy Tân (VnEx)
*/. Những cuốn sách nghiên cứu nổi bật 2017 (Zing)
*/.Trao giải sách hay năm 2017 (VNN, 01-10-2017)
*/. Xuất bản bộ sách đầy đủ nhất về vùng đất nam bộ (SGGP, 23-1-18)
*/ Ra mắt bản tiếng Việt cuốn sách "Hoàng đế" (VNQĐ, 06-02-18)