Chiều
chiều ra đứng cửa sau,
Ngó
về quê mẹ ruột đau chín chiều.
(Cá
dao)
Có Thảo lấy
chồng đã ba năm. Anh Vận, chồng cô hiện làm hương thơ ở làng Mỹ Lý. Anh Vận trước
kia có theo học chữ quốc ngữ, nhưng đã hai năm thi yếu lược không đậu, nên anh
ta lại thôi. Qua năm sau, dân trong xóm bẩu anh ta lên làm hương thơ trong
làng. Ngày nào, anh cũng đi nhà này qua nhà khác phát thư rồi chiều đến lại phải
ra tận đình để lấy hòm thư đem lên huyện. Công việc của anh tuy vất vả, nhưng
lương tháng – hay nói cho đúng, lương năm - của anh trông ít quá. Làng chỉ
trích cho anh ta hai mẫu ruộng công và năm đồng bạc đề làm tiền lộ phí. Nhưng
năm đồng ấy thì không bao giờ anh nhận được. Vì các viên chức việc đã khéo léo
trừ với món tiến phải đóng sưu này thuế khác gần hết.
Nhưng ở vùng
quê, được một chức nghiệp như thế, anh Vận cũng cho là danh giá lắm. Và bà Lại,
mẹ anh Vận, lúc nói chuyện với những người quen, cũng không quên tự hào được một
người con ra đảm đương việc làng việc nước.
Cô Thảo ra lấy
chống, vốn liếng không có, nên không đi buôn bán gì hết. Cả nhà chỉ trông vào một
mẫu ruộng tranh và hai mẫu ruộng làng để sống năm này tháng khác.
Chiều hôm ấy,
lúc thoáng thấy bóng chống đi về đến cổng, cô Thảo liền vội vàng ẵm con ra sân
để đón. Thấy anh Vận ra dáng mệt nhọc, nên cô ta chưa dám hỏi gì hết. Vào tới
sân, anh Vận liền đến ngồi trên cái chõng. Cô Thảo để con ngồi một bên chồng, rồi
đột ngột chỉ cây thanh trả bên bờ hè, nói khẽ :
- Cây thanh
trà mới đấy mà đã có trái rồi cậu ạ.
Anh Vận để
con ngồi trên chân, rồi cúi đầu xuống nhìn đứa con, dịu lời đáp:
- Thế à. Cây
thanh trà ấy trông dáng khô khan, không ngờ lại giống tốt.
Cô Thảo ghé
ngồi một bên chồng nói tiếp:
- Cây thanh
trà ấy tôi đem từ bên nhà qua đây. Mới hai năm đã có trái ăn được, kể cũng
nhanh thật.
Anh Vận như sực
nhớ một việc gì, nhìn vợ hỏi vội:
- Tôi nhớ ra
rồi. Hôm ấy là ngày giỗ ông bên mợ. Mợ về làng ăn giỗ rồi đem cây thanh trà ấy
qua cho tôi. Tôi cũng quên lúc ấy mợ đã có thằng Lụn chưa?
— Rồi, nhưng
nó mới được ba tháng.
— Mà tôi quên
giỗ ông nhằm ngày mấy?
Cô Thảo nhìn
chồng mỉm cười:
— Được vài
ông rể quý như cậu thì ngày giỗ của nhà tôi cũng không khỏi hương tàn bàn lạnh.
Giỗ ông nhằm một ngày dễ nhớ mà cậu cũng quên.
Anh Vận như
nhớ lại được, gật đầu lia lịa:
— Thôi tôi nhớ
được rồi. Giỗ ông vào tiết Trung thu phải không mợ?
— Không phải,
ngày rằm tháng tám.
Anh Vận lớn
tiếng cười vang làm cho thằng Lụn cũng phải ngẩng mặt lên nhìn ngơ ngác.
— Rõ ngớ ngẩn
như đàn bà. Tiết Trung thu hay rằm tháng tám có khác gì nhau. Có khác là người
hay chữ họ thường gọi tiết Trung thu, còn người... ít hay chữ thì gọi rằm tháng
tám.
Cô Thảo nhìn
chồng cười mỉm:
— Người hay
chữ với lại người ít hay chữ! Thì cậu cứ nói người thông với người dốt có được
không?
Thật ra thì
anh Vận cũng có ý nói người hay chữ với người dốt, nhưng lại sợ làm mếch lòng vợ.
Anh Vận nhìn
ra trước cổng yên lặng. Thằng Lụn cũng muốn tụt xuống đất để đùa với con mèo
con đang đi qua gần đấy. Cô Thảo vào nhà thắp đèn rồi lại trở ra ngồi chỗ cũ. Mảnh
trăng trong lúc ấy đã bắt đầu chiếu ánh sáng dịu dàng qua hàng tre trước cổng.
Trông thấy
ánh trăng, anh Vận quay sang hỏi vợ:
⁃ Hôm nay là
mấy rồi mà trăng sáng quá ?
⁃ Ngày
mười ba.
Anh Vận thả
hai chân suống chõng nhìn vợ ngơ ngác:
- Thế ngày mốt là ngày giỗ ông rồi à? Và ngày mai là ngày, mợ phải về làng.
Cô Thảo nhìn
xuống đất đáp khẽ:
- Phải.
Anh Vận đưa
tay lên gãi đầu :
- Thật tôi vô
tình quá. Ngày kỵ đã gần đến mà cũng quên.
Cô Thảo ngồi
yên lặng không đáp. Thật ra, tối hôm ấy cô muốn xin chồng về làng giỗ ông,
nhưng cô không muốn nói thẳng. Cô tự nghĩ nhắc chồng ngày giỗ ở nhà mình là một
việc chướng lắm. Thật tự nhiên đề cho chồng nhớ lại thì hơn. Nhưng mãi đến chiều
cũng không nghe chồng nói gì, nên cô phải mượn đến chuyện cây thành trà để nhắc
xa xôi cho chồng nhớ.
Tối hôm ấy,
cơm nước xong xuôi, anh Vận liền đến xin mẹ cho vợ về làng ăn giỗ.
Bà Lại nhìn cô
Thảo đang ẵm con đứng tựa bên cột bảo khẽ:
⁃ Ừ, về thì về. Nhưng bên nhà
ngày mai giỗ ai mà tôi cũng quên phắt đi rồi.
⁃ Thưá mẹ, giỗ ông con.
- Thể à.
Nghĩ một lát
bà ta nói tiếp:
- Mai mợ chắc
phải về làng sớm. Lúc ấy có lẽ tôi cũng chưa dậy. Vậy tối nay mợ ra ngoài vườn
cắt một bưồng chuối mật – buồng chuối gần bên cái giếng ấy - đề về giỗ ông. Năm
nay tôi bận việc nhà quá, chắc qua không được. Thôi nhờ trời, năm khác.
Nói xong, bà lại
lách bàn tay vào túi yếm lấy ra một hào xu rồi đưa cho cô Thảo :
- Thôi cho mợ
một hào đề đi đò. Và nhớ chớ đề em ngồi nhìn xuống mặt nước.
Có Tháo vội
vàng đỡ con xuống, đưa hai tay nhận tiền, tỏ ra vẻ sung sướng.
Trước khi đi
ngủ, anh Vận cũng chạy quanh xóm mượn chỗ này chỗ khác cho cô Thảo thêm bốn hào
nữa.
Tối hôm ấy,
cô Thảo không đi ngủ sớm. Cô dắt con ngủ bên bên chồng xong lại lật đật xách
đèn ra sau vườn chuối. Loay hoay một lúc lâu, cô mới đem được buồng chuối mật vào
nhà. Cô đem để vào một góc thật kín vì sợ nửa đêm chuột đến khoét. Xong rồi cô mới
qua bên nhà cô Thị mượn đôi hoa tai vàng và cái nón lá mới. Sắp đặt đâu đó xong
xuôi, cô mới lên giường nằm ngủ.
Trời tờ mờ
sáng, cô Thảo đã trở dậy sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách xa làng Mỹ Lý hơn
mười lăm cây số. Vì vậy nên mỗi năm cô chỉ được về làng chừng hai ba lượt là
nhiều. Xưa kia, cô từng qua lại làng Mỹ Lý ngày một để bán gạo, nhưng sau lúc
cô đi lấy chồng thì quê nhà đối với cô đã là nơi xa lạ.
Qua những con
đường mòn, chạy nấp theo bờ ruộng, cô lại nhớ đến quãng đời bán gạo của cô ngày
trước. Trong trí cô hiện rõ lại lần lần hình ảnh của cô Thu, cô Nguyệt, cô
Hương, những cô bạn mà trước kia cô cho là thân nhất.
Nhưng đời các
cô ấy cũng như cô, nghĩa là cũng có chồng, có con, và quãng đời làm dâu cũng vất
vả, cũng phẳng lặng như nhau hết.
Đi chưa được
bốn cây số, cô Thảo đã thấy mỏi. Cô tự nhận thấy sức cô yếu hơn trước nhiều lắm.
Cô muốn đi đò cho đỡ chân nhưng xực nhớ đến những món quà cần phải cho em, cô lại
gắng gượng đi nhanh hơn trước.
Qua khỏi đầu
làng Duyên Hải thì cô Thảo gặp cô Đài, người bạn cùng làng thường chơi với cô
ngày trước. Cô Thảo nhờ cô bạn gánh hộ buồng chuối mật và mấy gói bánh mua bên
chợ Kỳ Lâm. Cô Đài vui vẻ nhận lời ngay. Vào quán nước ở gần đấy nghỉ một chốc,
hai cô lại cùng nhau lên đường, chuyện trò không ngớt.
Về đến làng,
cô Thảo gặp ai cũng đón chào niềm nở. Lòng cô lúc ấy nhẹ nhàng và vui sướng lắm.
Còn họ gặp cô đi đằng xa đã kêu réo lên om sòm như gặp được người sống lại. Họ
hỏi thăm cô chuyện này chuyện khác, mục đích là để xem cô ăn mặc độ này có khá
hơn trước không. Cô Thảo thấy người làng chào hỏi mình vồn và nên đáp lại rất
vui vẻ. Cô ta không quên lấy cái nón xuống, giả vờ quạt vào mình để mấy người đứng
chung quanh được thấy đôi hoa tai vàng của cô.
Đến trưa hôm ấy
thì cô về đến nhà. Mấy cậu em đua nhau ra níu áo chị. Cô Thảo xoa đầu đứa này,
đỡ cằm đứa khác, nụ cười trên môi cô không khi nào tắt. Trông thấy mẹ trong nhà
đi ra, cô mừng quá. Cô chạy lại đứng bên mẹ, cảm động quá đến rưng rưng nước mắt.
Một lúc sau cô đưa thằng Lụn cho mẹ ẵm rồi đi thẳng vào nhà để chào những người
quen biết.
Bà Vạn cứ quấn
quít bên cháu, bà còn quên cả ngày giờ. Bà giới thiệu cô Thảo với người này người
khác, bà nhắc đến chuyện cô Thảo lúc cô còn năm sáu tuổi. Kể đến đoạn nào, bà
cũng có ý khoe cô Thảo đức hạnh và khôn ngoan đủ thứ. Bà nói mãi mà không biết
chung quanh bà không ai nghe hết.
Sung sướng nhất
là cô gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông, nhưng không làm gì hết.
Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng, cô mới chịu đi ra
ngoài.
Lúc cô đứng lễ
thì ông Vạn, thân sinh cô, vuốt râu cười nói:
– Con phải lễ thế phần chồng con nữa. Nó làm gì bên ấy mà không qua.
Cô Thảo sau
khi đi thụt lùi ra khỏi chiếu mới khẽ đáp:
– Dạ, nhà con mắc việc quan.
Cô Khuê, chị
em chú bác với cô Thảo, đứng gần đấy trề môi nói tiếp:
– Thứ đồ làm hương thơ, mỗi năm được làm hai mẫu ruộng công mà cũng gọi là việc
quan.
Ai nấy đều
nghe thấy, nhưng không ai cãi lại. Ông Vạn đứng cúi đầu xuống hơi ngượng. Còn
cô Thảo gương mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn xuống bếp. Nhưng ngay lúc ấy, cô lại gặp
cặp mắt của mẹ đang nhìn cô chòng chọc. Cô đau lòng quá đến độ hai dòng lệ chảy
dài trên má.
Sáng hôm sau,
cúng cơm sáng xong xuôi, cô Thảo lại sắm sửa đi qua làng Mỹ Lý. Cô gọi mấy em đến
gần rồi cho mỗi đứa năm xu. Trong nhà ai cũng khen cô rộng rãi và biết thương
em, nên cô vui sướng lắm. Đang lúc cao hứng, cô còn hứa sẽ gửi cho mẹ một cặp
áo quần mới để mặc Tết nữa. Nhưng chính cô cũng không biết sẽ lấy đâu ra cặp áo
quần ấy. Chỉ trong nháy mắt, cô Thảo đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm
trong một năm.
Lúc sắp sửa
lên đường, bà Vạn đưa cho cô nửa con gà và một gói xôi để đem về biếu nhà chồng.
Lúc ra đi, cô cảm động quá, đứng bên mẹ và mấy em khóc nức nở.
Về nhà chồng,
cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt. Lúc nào cô cũng nhớ
đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhưng nhớ thì lòng cô lại bùi ngùi, trí óc lại bận rộn.
Rồi chiều chiều,
gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng Quán Lão.
Nhưng làng Quán Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một gạch đen dài trên ven đồi xa
thẳm.
Quê mẹ,
tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1941.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét